Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2012

Bút ký :Ký ức làng chiến tranh(Tạp chí Nhà văn 12/ 2008)


Bút ký :Ký ức làng chiến tranh(Tạp chí Nhà văn 12/ 2008)
vudam | 17 Dec, 2008, 13:35 | | (268 Reads)
 
    VŨ ĐẢM
    Hàng vạn người, họ là chính khách, nhà khoa học, nhà văn hoá, cựu chiến binh và thường dân đến tham quan  Khu du lịch sinh thái- văn hoá Vực Quành thuộc xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình đều nghĩ rằng ông Nguyễn Xuân Liên- chủ nhân của Khu du lịch này hẳn phải là một người dân Quảng Bình đã từng sống trên mảnh đất này.
  

    Nhờ có tiền do hai người con trai của ông Liên đang sinh sống ở bên Đức gửi về, cộng với tiền ông tích góp được  nên chỉ sau vài năm cái làng chiến tranh của ông đã dần dần hình thành. Ngay sau khi bước vào cổng làng, tôi và mọi người đã thấy đập vào mắt là cái hố bom to như cái ao, quanh hố bom là những quả bom bi, bom tạ, bom sát thương, đuôi tên lửa, những chứng tích chết người mà kẻ thù đã gieo rắc trên mảnh đất khói lửa Quảng Bình. Men theo con suối, qua cái cầu phao, sang bên kia là ngôi nhà tưởng niệm các liệt sĩ. Trong ngôi nhà có bát hương, những tấm bia đá khắc ghi danh sách 4.300 liệt sĩ của các tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Hưng yên, Hà Tây, Hà Nội, Hà Tĩnh, Nghệ An vv... đã hy sinh trên mảnh đất Quảng Bình. Ông Liên bảo với tôi, danh sách các liệt sĩ này do chính ông đi đến các nghĩa trang ở Quảng Bình ghi chép rồi thuê thợ tạc vào bia đá; ông cũng đã gửi thư cho các thân nhân liệt sĩ và đã có 30 gia đình tìm được mộ liệt sĩ thông qua thông tin của ông.

 Nhà tưởng niệm liệt sĩ
   Thắp hương cho các liệt sĩ xong, chúng tôi đi theo những con đường mòn, những đường hào tiến sâu vào trong làng. 15 ngôi nhà tường đất, mái tranh giống như những ngôi nhà dân ở  trong chiến tranh thấp thoáng hiện lên trong cây rừng. Bước vào trong nhà, chị Luyến giúp việc kiêm hướng dẫn viên chỉ vào chiếc hầm chữ A, bảo đó là hầm tránh bom; chỉ vào những chiếc bao tải được xếp chồng lên nhau, bảo đó là những bao gạo mà các đơn vị bộ đội gửi ở nhà dân. Những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, nhà của mỗi người dân cũng là nơi trú chân của bộ đội, là nơi chứa lương thực thực phẩm của bộ đội; dân làng đói lắm thế nhưng không một ai động đến một hạt gạo của bộ đội, lòng tự trọng, tinh thần hy sinh vì Tổ quốc đã khiến họ trong sáng đến vô ngần, người dân có thể hái lá rừng, đào măng rừng mà ăn chứ quyết không ăn gạo của những người lính. Hơn nữa, nhà nào mà chả có người ra trận, nhà ít thì một người, có nhà cả nhà cùng tham gia chiến đấu, nếu không là bộ đội thì cũng là dân quân du kích, thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến; ăn gạo của bộ đội cũng đồng nghĩa với việc ăn cơm của chồng con mình.
    Bây giờ cuộc sống của người dân nơi đây vẫn còn nghèo khó nhưng họ vẫn sống trong sáng, đói cho sạch, rách cho thơm. Nhưng buồn quá, ông Liên bỗng thở dài, tôi hỏi ông sao lại buồn, ông bảo người dân thì  nghèo thì trong sạch là thế nhưng cái bọn quan tham thì lại vơ vét của dân, làm giàu, ăn chơi sa đọa trên mồ hôi nước mắt của dân. Tôi vấn an ông Liên, Đảng và Chính phủ đang tuyên chiến với nạn tham nhũng, Quốc hội cũng đã Ban hành Luật Phòng chống tham nhũng, sớm hay muộn cái bọn "giặc" nội xâm còn nguy hiểm hơn cả bọn giặc xâm lược cũng sẽ bị lôi hết ra vành móng ngựa.
    Dẫn chúng tôi vào một căn hầm có những chiếc nôi, chị Luyến cho biết đây là nhà trẻ, những chiếc nôi dùng để ru trẻ được làm bằng mây tre; một thời, tiếng bom đạn làm những đứa trẻ giật bắn mình, khóc thét lên vì sợ hãi thì tiếng ru à ơi của người mẹ lại làm cho chúng lim dim đi vào giấc ngủ bình yên. Dưới sự dẫn dắt của chị Luyến, chúng tôi tiếp tục đi đến lớp học có kê những bộ bàn ghế đóng bằng tre và gỗ rừng; đến phòng mổ trong lòng đất, một vài cựu chiến binh đi cùng tỏ ra xúc động khi sờ vào chiếc bàn mổ và chiếc đèn mổ thời chiến, có lẽ họ đang nhớ lại cái ngày mà chính mình bị thương và đã được đưa lên bàn mổ kiểu này!
    Làng chiến tranh của ông Liên, ngoài những cái làm mô phỏng với những nguyên vật liệu thật, thì có nhiều cái tồn tại từ thời chiến tranh như Ụ súng 12ly 7 phòng không của dân quân xã Nghĩa Ninh; Đường ống dẫn dầu Bắc- Nam gồm  hai tầng nổi và chìm dưới suối; Cây cầu ngầm mà ngày xưa bộ đội đi vào kho quân giới; Đường giao liên, bộ đội hành quân vào Nam. Ông Liên cho tôi biết một vấn đề lịch sử lý thú của dòng họ Đào ở làng Trung Nghĩa, làng mà ông  xây dựng Làng chiến tranh. Khi Đào Duy Từ cùng các tướng lĩnh tiến hành xây dựng hệ thống Luỹ thầy giúp chúa Nguyễn chống lại chúa Trịnh trong thời gian từ 1630 đến 1633, Đào Duy Từ đã đưa người của dòng họ Đào từ Thanh Hóa vào làng Trung Nghĩa đắp lũy, họ lập gia đình, sinh con đẻ cái mà thành họ Đào. Anh Đào Hữu Toàn, chồng của chị Luyến chính là huệ duệ của họ Đào. 
    Ngồi trong căn nhà được cất cao ráo dành cho khách tham quan dừng chân nghỉ ngơi, chúng tôi được uống thứ nước cây lá rừng mát mẻ, chị Luyến bảo lá của cây này có thể hái quanh năm nhưng tốt nhất là hái vào giữ trưa Tết đoan ngọ mồng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm  vì thế mà loại lá này có tên gọi dân gian là lá  mồng năm. Nhân lúc chị Luyến rỗi việc thuyết minh, tôi bắt chuyện:
- Chị làm ở đây lâu chưa? Một tháng được ông Liên trả bao nhiêu?
  Chị Luyến đáp:
- Vợ chồng em giúp việc cho bác Liên từ những ngày đầu, thấy bác mãi từ Hà Nội còn vào được đến đây để làm cái công việc đầy ân nghĩa, lẽ nào mình là người địa phương lại không giúp bác!
  Một tháng hai vợ chồng chị Luyến được ông Liên trả công 1,5 triệu, số tiền tuy nhỏ nhưng đó cũng là một cố gắng của ông Liên, bởi cái làng chiến tranh của ông tuy một năm có tới 5-7 ngàn người đến tham quan nhưng ông chưa thu tiền vé. Ngay bản thân ông Liên cũng chỉ sống nhờ vào 2,2 triệu tiền lương, trả cho vợ chồng chị Luyến 1,5 triệu; vợ chồng chị Luyến còn cấy ruộng, chăn nuôi nên vẫn đủ sống, còn ông Liên, may mà có hai người con sống ở bên Đức thỉnh thoảng lại gửi tiền về tiếp tế chứ không ông khó mà sống nổi với 700 ngàn còn lại.Tôi hỏi ông Liên tại sao ông không tiến hành bán vé mà chỉ đặt hòm công đức, ông Liên có vẻ hài hước:
- Khi nghe tin tôi bán nhà ở Hà Nội để vào đây, bạn bè bảo tôi là thằng điên, bao nhiêu người giàu có, bao nhiêu quan chức ở các tỉnh đều đổ xô về Hà Nội để mua nhà, sau này về hưu lên thủ đô sống thế mà tôi lại làm ngược lại.
- Thế bây giờ, họ còn bảo ông điên nữa không?
- Không, sau khi vào tận đây, mắt thấy tai nghe việc tôi làm mang nhiều ý nghĩa, họ không bảo tôi điên nữa mà gọi tôi là Bá tước " Đông- ki- sốt"
- Đông- ki- sốt?

   Ông Nguyễn Xuân Liên
      Tôi trợn tròn mắt hỏi lại ông Liên và sợ ông có sự nhầm lẫn gì chăng, tôi giải thích cho ông biết, Đông- ki- sốt chính là nhân vật Đôn Kihôtê trong tiểu thuyết được đánh giá là cuốn tiểu thuyết hay nhất mọi thời đại " Đôn Kihôtê- nhà quý tộc tài ba xứ Mantra" của đại văn hào Xervantex. Ông Liên gật đầu xác nhận. Như vậy là ông- "Bá tước Đông-ki-sốt" đang đánh nhau với cối xay gió? Tôi nửa đùa nửa thật hỏi ông Liên, ông bảo đúng vậy, chỉ có điều dưới con mắt của Đôn Kihôtê thì những chiếc cối xay gió là những tên khổng lồ  hung ác, cần phải tiêu diệt cho bằng hết; còn dưới con mắt của ông,"Những cối xay gió" mà ông đang phải chống lại chính là nạn tham ô, ăn cắp và thủ tục hành chính quan liêu.
  Biết được việc làm của ông Nguyễn Xuân Liên rất có ý nghĩa đối với việc tôn vinh sự hy sinh của bộ đội và người dân trong chiến tranh, đồng thời góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ cho nên lãnh đạo tỉnh Quảng Bình rất ủng hộ ông; ngày 17/11/2004, UBND tỉnh đã ra Quyết định số: 3931/QĐ-UB, phê duyệt Quy hoạch chi tiết xây dựng Khu du lịch Sinh thái Văn hoá- Vực Quành tại xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới cho ông Liên nhưng hơn 5 năm nay các cơ quan chức năng ở Quảng Bình vẫn chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông. Chính vì thế mà ông sẽ phải chịu thiệt thòi khi đóng thuế đất theo thời giá bây giờ; không những thế, có lần Đội quản lý trật tự đô thị đã vào Khu du lịch của ông phá dỡ một số công trình, ông phải lên tỉnh kêu cứu họ mới thôi. Cũng vì không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên ông không dám kêu gọi đầu tư  và cái làng chiến tranh của ông vẫn còn dang dở; nhiều hạng mục cũng đã bắt đầu xuống cấp, ông xót xa lắm. Ông Liên còn cho biết, có một Trại lợn bên cạnh đã lấn đất Khu du lịch của ông 11m theo chiều ngang, trên bản đồ qui hoạch từ mốc A đến mốc B dài 56, nay chỉ còn 45 m. Ông ra kêu xã nhưng một cán bộ bảo rằng ông là người Hà Nội, không phải là người địa phương, họ phải bênh người địa phương! Trại lợn còn gây ô nhiễm môi trường. Vào những ngày gió Nam, người dân thôn 7 bị ngửi mùi hôi thối, còn ngày gió Nồm thì Khu du lịch sinh thái của ông phải hứng chịu, ngay cả nguồn nước hồ cũng bị ô nhiễm. Năm 2007, Khu du lịch của ông bị bọn nghiện hút cạy cửa kho vào lấy tất cả những gì bằng nhôm, đồng như mảnh máy bay, bom napan, rốckét; đường ống dẫn dầu tầng nổi bị bóc dỡ hết từ trước khi ông đến đây nhưng ông Liên đã có đủ nguyên vật liệu để chuẩn bị khôi phục lại đường ống này. Năm 2008, Khu du lịch bị chúng khênh mất quả bom nặng 250kg. Để tránh mất cắp, ông Liên đành phải cất giữ những thứ quí hiếm ở ngay trong ngôi nhà mà mình ở, chỉ khi nào có khách, ông mới lấy ra cho khách xem. Ví  như " Cây nhiệt đới", ông Liên hiện có một cây, nó là một loại thiết bị thu phát nằm trong kế hoạch" Hàng rào điện tử Mác-na-ma-ra"; kế hoạch này ra đời năm 1966, ngốn mất 1.600 triệu đôla, quân Mỹ đã rải từ 12-20 ngàn cây nhiệt đới xuống đường Trường Sơn và dọc theo vĩ tuyến 17 từ cửa Việt( Quảng Trị) lên đến Sêpôn( Lào) nhưng chúng đã thất bại vì đã bị bộ đội ta vô hiệu hoá; thậm chí còn bị bộ đội làm tín hiệu giả để những cây nhiệt đới được gọi là những con mắt thần thông minh phát tín hiệu về trung tâm, sau đó ít phút  máy bay Mỹ bay đến dội bom phá núi, giúp bộ đội lấy đá làm đường!
  Cuộc chiến đấu của "Bá tước Đông-ki-sốt"- Nguyễn Xuân Liên với những chiếc" Cối xay gió" xem ra chưa có hồi kết khi có kẻ đã bắn tin cho ông biết sẽ tranh chấp và đuổi ông ra khỏi mảnh đất này. Và vào lúc 19h30, ngày 11/8/2008, một ngôi nhà trong hệ thống 15 ngôi nhà chiến tranh nằm trong Khu du lịch của ông Liên đã bị đốt cháy. Ông Liên xót xa trao đổi với tôi, trong ngôi nhà này hiện lưu giữ những nông cụ, đồ dùng thường ngày của người nông dân Quảng Bình trong chiến tranh bị thiêu rụi hết và dù có tiền cũng không thể mua lại được nữa!
  Sống ở đời, muốn làm một việc tốt cũng khó, muốn làm một người tốt càng khó hơn nhưng tôi và tất cả những ai đã từng đến Làng chiến tranh đều tin công việc đầy ý nghĩa mà ông Liên đang làm vẫn sẽ phát triển trên mảnh đất mà máu đào của các chiến sĩ, của nhân dân Quảng Bình đã đổ xuống vì độc lập, tự do cho Tổ quốc như lời mà nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã ghi trong sổ cảm tưởng khi đến thăm Khu du lịch đặc biệt của ông:" Đồng chí Nguyễn Xuân Liên, một cựu chiến binh ngành y của Quân đội nhân dân Việt Nam, với tâm huyết- nhiệt tình- sáng tạo mà đứng ra dựng lên một phần những hình ảnh về cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân Quảng Bình, nơi địa đầu chống chiến tranh phá hoại của quân xâm lược Mỹ. Tôi rất hoan nghênh, mong chính quyền địa phương giúp đỡ để khu vực này góp phần giáo dục các thế hệ nay và mai sau". 
 
  Quảng Bình- Hà Nội, tháng 5-  9/2008

 Hố bom trong Làng chiến tranh

Bởi Khu du lịch của ông Liên  nằm trên diện tích hơn 10ha, không có cảnh sơn thuỷ hữu tình, chim kêu vượn hót mà một Làng chiến tranh mô phỏng. Phải là một người dân địa phương, yêu quê hương, ông mới lập nên một Khu du lịch độc nhất vô nhị này chứ? Không, hoàn toàn không, ông sinh ra và lớn lên trên quê hương Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây; năm 1961, sau khi học xong kế toán, ông  được điều vào làm việc ở trường Y sĩ Quảnh Bình đóng trên mảnh đất Lộc Ninh, huyện Quảng Ninh, sau chuyển lên Phúc Trạch- Lâm Trạch tỉnh Quảng Bình cho đến mãi năm 1970, ông được chuyển ra Bắc làm việc tại  Đại học Y khoa miền núi( nay là Trường Đai học Y Thái Nguyên). Năm 1983, ông chuyển về Hà Nội, công tác tại Viện Châm cứu Trung ương cho đến năm 2003 thì nghỉ hưu. Mảnh đất ông đã sống và làm việc trong những năm tháng chiến tranh bị bom đạn tàn phá ác liệt, nó ám ảnh ông mãi mãi trong cuộc đời nên ngay cả sau này đã  sống giữa thủ đô Hà Nội bình yên, ký ức về chiến tranh luôn hiện về trong ông. Ông kính phục những người lính đã anh dũng hy sinh, những người dân chịu bao mưa bom bão đạn vẫn trung kiên bám đất bám nhà để lấy chỗ cho bộ đội nghỉ ngơi, để lấy chỗ cất giấu lương thực thực phẩm cho tiền tuyến. Trong tâm khảm ông, ông còn vô cùng biết ơn những người dân trong chiến tranh, họ đã cưu mang cứu sống ông, không có họ chắc giờ đây ông cũng đã nằm sâu dưới lòng đất. Năm 1992, sau gần 30 năm, ông quay lại mảnh đất nơi ông đã sống là làm việc, ông ngỡ ngàng và tiếc nuối, tất cả nhà cửa, hầm hào, cùng các công trình phòng không nhân dân đã bảo vệ đồng bào, chiến sĩ trong cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại đã không còn dấu tích gì vì người dân đã phải phá bỏ, san lấp để lấy đất sản xuất và sinh hoạt. Riêng một bộ phận người dân thị xã Đồng Hới- những người trước tháng 4/1965 có nhà, có đất ở thị xã phải đi sơ tán trong chiến tranh đã không được trở về mảnh đất xưa của gia đình mình. Người dân, trong chiến tranh, họ đã hy sinh cả xương máu cho dân tộc, nay hoà bình họ lại bị thua thiệt nhiều quá,  thế rồi trong ông nảy ra cái ý tưởng lạ lùng" Lập một làng chiến tranh" mô phỏng giống như làng trong chiến tranh thời chống Mỹ ác liệt. Nung nấu ý tưởng trong hơn 10 năm, tháng 3 năm 2003, về hưu, ông quyết tâm thực hiện bằng được ý tưởng của mình, dời bỏ thủ đô, một thân một mình vào Quảng Bình sinh sống. Vợ ông không đồng ý, ông đành bán ngôi nhà phố  Vĩnh Hồ, quận Đống Đa, Hà Nội được 1,5 tỷ, chia cho vợ một nửa còn 820 triệu ông vào Quảng Bình mua hơn 10 ha đất 327- đất đồi rừng ở xã Nghĩa Ninh. Đúng vào ngày Thương binh - liệt sĩ 27/7/2003, ông Liên dựng 2 ngôi nhà đầu tiên, hôm khởi công cả đại gia đình ông, từ mẹ ông đến các con ở nước ngoài, các cháu ở Hà Nội đều vào dự làm ông thêm vui nhưng cũng chỉ được vài ngày, người thân của ông lại ra đi. Những ngày đầu, một mình sống trong miền rừng đồi hoang vu, ông cảm thấy cô đơn lắm, may mà có thêm hai vợ chồng anh Toàn- chị Luyến là người bản địa giúp việc cho ông nên cuộc sống của ông cũng đỡ cô quạnh.